Tỷ lệ người mắc hội chứng này càng ngày càng tăng và chi phí cho điều trị tốn kém chỉ sau bệnh cảm lạnh. Bệnh gặp ở mọi lứa tuổi nhưng thường thấy nhất là từ 30 – 40 tuổi. Cũng có thể gặp ở những trẻ em và những người lớn tuổi. Nữ giới mắc bệnh nhiều hơn nam giới theo tỷ lệ từ 2,4 – 3/1. Những phụ nữ ít hoạt động thể lực, trầm cảm, nhân cách yếu thường mắc bệnh nhiều hơn.
Dưới đây là những triệu chứng cơ bản của hội chứng ruột kích thích:
1. Đau bụng:
Vị trí đau : Thường ở vùng hố chậu phải, tuy nhiên cũngc ó thể ở vùng hạ vị, vùng hạ sườn hai bên, vùng hố thắt lưng hoặc đau khắp ổ bụng. Theo một thống kê ở Mỹ cho thấy 20% đau vùng hạ vị; 20% đau bụng phía bên phải; 20% phía bên trái; 10% ở thượng vị và 10% ở các vị trí khác.
Tính chất đau rất khác nhau giữa các bệnh nhân: Đau kiểu quặn thận, kiểu đầy tức, kiểu như trướng hơi, kiểu bỏng rát hay kiểu xoắn vặn. Đôi khi có những cơn đau dữ dội giống một bệnh lý ngoại khoa.
Hoàn cảnh xuất hiện : Cơn đau thường xuất hiện trong những giờ làm việc, có thể đau ít thoáng qua và do sự bận rộn của công việc nên bệnh nhân thường lãng quên đi những triệu chứng. Cũng có khi đau nhiều hơn tuy không dữ dội nhưng bệnh nhân luôn cảm thấy ảnh hưởng đến hiệu quả công việc. Rất ít khi đau về đêm mà khiến người bệnh phải thức giấc. Cơn đau thường tăng lên sau ăn hoặc có những stress, giảm đau sau khi trung tiện hoặc đại tiện và thường biến mất vào ban đêm.
Thời gian kéo dài của cơn đau cũng rất thất thường: Có khi vài ngày vài giờ hoặc vài phút. Cơn đau tái phát với các tính chất tương đối hằng định giống những cơn đau trước đó. Đặc điểm đau rất đa dạng và không đặc hiệu này làm cho thầy thuốc rất khó định hướng trong chẩn đoán.
Rối loạn nhu động ruột: Rối loạn nhu động ruột biểu hiện lâm sàng là táo bón hoặc ỉa lỏng hay phối hợp cả hai xe kẽ lẫn nhau.
2. Táo bón:
Người bệnh có cảm giác rất khó đi ngoài nên phải cố rặn, đại tiện không hết phân nên luôn có cảm giác muốn đi ngoài, thời gian đại tiện lâu. Phân cứng hoặc lổn nhổn, có chất nhày bám theo phân. Số lần đại tiện giảm, ≤3 lần/ ngày. Lúc đầu táo bón từng đợt, sau táo bón liên tục hơn và ngày càng kém đáp ứng về các thuốc nhuận tràng.
Táo bón có thể xen kẽ với ỉa lỏng, sau một đợt táo bón là ỉa lỏng và ngược lại. Triệu chứng táo bón thường kèm theo cảm giác căng trướng bụng và đầy hơi.
3. Đi ngoài phân lỏng:
Mật độ phân: Phân không thành khuôn và kém độ kết dính, rất ít khi ỉa chảy nước với khối lượng phân không tăng (thường từ 200 – 300 ml/ ngày). Tính chất của phân khác với những trương hợp giảm hấp thu do những tổn thương ở ruột non hoặc do viêm tụy mạn tính.
Phân thường có nhiều mũi nhày nên trước kia một số tác giả nước ngoài nhầm lẫn gọi là viêm đại tràng tiết nhày. Trong phân không bao giờ có máu trừ khi có bệnh trĩ kèm theo và cũng không bao giờ có hạt mỡ. Nếu tăng nhu động nhiều, trong phân có thể có các sợi thức ăn chưa tiêu hóa hết như sọi rau, quả và các loịa ngũ cốc…
Số lần đi ngoài nhiều: Ít nhất 3 lần / ngày, buộc phải đi ngoài ngay sau khi thức dậy vào buổi sáng, có khi cảm giác muốn đi ngoài ngay sau khi ăn, ít khi đi ngoài vào ban đêm.
Ỉa lỏng thường kèm theo đau quặn bụng, sau khi đi ngòai triệu chứng đau giảm đi hoặc hết. Ỉa lỏng đơn độc không kèm đau bụng ít gặp hơn. Mặc dù ỉa lỏng kéo dài nhưng hầu hết không có các biểu hiện của hộ i chứng kém hấp thu cũng như gầy sút. Các đợt ỉa lỏng thường hay tái phát khi ăn các loại thức ăn tanh, mỡ hoặc thức ăn lên men chua.
4. Các triệu chứng khác:
Sôi bụng :
Do khí trong các quai ruột có xu hướng đi ngượi từ dưới lên trên tạo ra ác cơn sôi bụng và ợ hơi.
Bụng trướng hơi : Bệnh nhân luôn có cảm giác nhiều hơi trong bụng, bụng ậm ạch khó chịu. Tuy nhiên khi đo lượng khí trong ruột ở nhữung bệnh nhân có hội chứng ruột kích thích người ta không thấy thăng hơn so với người bình thường. Có thể do giảm sự dung nạp của bệnh nhân với cảm giác trướng bụng là chứ không phải là tăng khí thực sự trong các quai ruột.
Chán ăn do cảm giác đầy bụng hoặc đau . Sau khi những khó chịu ở bụng mất, người bệnh trở lại ăn bình thường nên ít khi sụt cân vì chán ăn.
Các rối loạn chức năng của thực quả dạ dày như hội chứng trào ngược dạ dày – thực quản với các triệu chứng:
Đau kiểu bỏng rát vùng thượng vị và giảm đau sau dùng các thuốc trung hòa acid, đau lan lên xương ức.
Nuốt đau hoặc vướng.
Cảm giác buồn nôn hoặc nôn, ứa nước bọt vào buổi sáng mỗi khi ngủ dậy.
Ợ hơi và ợ chua.
Tỷ lệ phối hợi với các biểu hiện của đường tiêu hóa trên là 25 – 50%.
Đi giải nhiều lần : tăng số lượng nhưng ít khi vượt quá 2000ml, cảm giác lại muốn đi giải nhưng không có đái buốt và đái dắt.
Rối loạn kinh nguyệt :
Chu kỳ kinh kéo dài hoặc ngắn lại, có khi mất trong vài tháng.
Mất ngủ hoặc ngủ không sâu vì vậy luôn có cảm giác mệt mỏi vào buổi sáng khi thức dậy.